Nợ công Việt Nam hiện đang là một vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều người. Với các khoản vay lớn từ các tổ chức tài chính quốc tế và các quốc gia khác, câu hỏi đặt ra là Việt Nam nợ nước nào nhiều nhất? Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều biến động, việc quản lý nợ công và xác định những đối tác tài chính đóng vai trò then chốt trong việc duy trì sự ổn định tài chính quốc gia. Trong bài viết này, hãy cùng TOPI tìm hiểu về chủ đề này nhé!
Các nước Châu Âu nói Tiếng Anh
Các quốc gia châu Âu sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ mẹ đẻ hoặc ngôn ngữ thứ hai ở các nước thuộc khu vực châu Âu, dưới đây là tỷ lệ phần trăm các quốc gia châu Âu nói tiếng Anh:
Tăng cường hiệu quả sử dụng vốn vay
Chính phủ chủ trương sử dụng vốn vay hiệu quả, tập trung vào các dự án có tính khả thi cao và mang lại lợi ích lâu dài cho nền kinh tế. Các khoản vay thường được ưu tiên cho các dự án hạ tầng giao thông, năng lượng, và công nghệ, nhằm tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế bền vững. Bên cạnh đó, chính phủ cũng kiểm soát chặt chẽ việc phân bổ vốn và giám sát tiến độ các dự án để tránh lãng phí và thất thoát.
Chính phủ Việt Nam áp dụng chính sách đa dạng hóa nguồn vốn vay. Bao gồm vay trong nước, vay từ các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và từ các quốc gia đối tác như Nhật Bản, Hàn Quốc. Việc đa dạng hóa nguồn vay giúp giảm bớt sự phụ thuộc vào một nguồn vốn cụ thể, từ đó giảm thiểu rủi ro tài chính.
Một trong những chiến lược quan trọng của Việt Nam là tăng cường huy động vốn trong nước thông qua phát hành trái phiếu chính phủ. Chính phủ đang hướng đến việc giảm tỷ lệ nợ nước ngoài trong cơ cấu nợ công, đồng thời gia tăng tỷ trọng nợ trong nước nhằm giảm bớt rủi ro về biến động tỷ giá và các điều kiện vay vốn không có lợi từ bên ngoài.
Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực cải cách hệ thống thuế và tăng cường thu ngân sách để giảm thâm hụt ngân sách và hạn chế nhu cầu vay nợ. Các biện pháp này bao gồm mở rộng cơ sở thuế, tăng cường quản lý thuế và chống thất thu ngân sách. Việc cải cách tài khóa giúp giảm áp lực lên nợ công, đồng thời tăng khả năng trả nợ của chính phủ.
Ngoài nợ quốc gia, chính phủ cũng kiểm soát chặt chẽ nợ công ở cấp địa phương. Các tỉnh, thành phố được yêu cầu hạn chế vay nợ và chỉ vay khi có kế hoạch trả nợ rõ ràng. Chính phủ cũng ban hành các quy định về mức trần nợ địa phương và giám sát chặt chẽ quá trình vay nợ của các địa phương để tránh tình trạng nợ xấu và quá tải tài chính ở cấp cơ sở.
Chính phủ thực hiện chính sách minh bạch thông tin về nợ công, công bố số liệu về nợ công định kỳ để đảm bảo người dân và các tổ chức có thể giám sát tình hình nợ. Đồng thời, các cơ quan nhà nước như Bộ Tài chính và Kiểm toán Nhà nước có trách nhiệm theo dõi và đánh giá hiệu quả quản lý nợ công, đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật.
Dự báo nợ công của Việt Nam trong tương lai
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều biến động, dự báo về nợ công của Việt Nam trong những năm tới cho thấy cả cơ hội và thách thức. Mặc dù chính phủ đang thực hiện các biện pháp quản lý chặt chẽ, nhưng nhu cầu đầu tư cho phát triển kinh tế và xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực hạ tầng, giáo dục và y tế, sẽ tiếp tục khiến Việt Nam phải vay nợ.
Dự báo nợ công của Việt Nam có thể sẽ tiếp tục tăng trong trung hạn, đặc biệt do nhu cầu đầu tư lớn cho các dự án hạ tầng giao thông quan trọng như đường cao tốc Bắc-Nam, các cảng biển và sân bay. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần nhiều nguồn vốn để phát triển năng lượng sạch và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Nợ công có thể tăng chậm hơn nếu kinh tế phục hồi mạnh
Trong kịch bản kinh tế Việt Nam phục hồi nhanh chóng sau các tác động từ đại dịch và những biến động toàn cầu, tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ có thể giúp giảm áp lực nợ công. Một nền kinh tế tăng trưởng sẽ cải thiện nguồn thu ngân sách, từ đó giúp giảm thâm hụt ngân sách và giảm nhu cầu vay nợ. Chính phủ cũng đang nỗ lực cải cách tài chính công, tăng hiệu quả thu thuế và chi tiêu công.
Triển vọng giảm nợ nếu sử dụng hiệu quả vốn vay
Một yếu tố quan trọng để giảm bớt nợ công trong tương lai là sử dụng hiệu quả các khoản vay. Nếu các dự án hạ tầng lớn được triển khai đúng tiến độ và mang lại hiệu quả kinh tế như dự kiến, nguồn thu từ các dự án này có thể giúp chính phủ giảm bớt gánh nặng trả nợ. Chính phủ đang đẩy mạnh giám sát và đánh giá hiệu quả các dự án sử dụng vốn vay, nhằm tối ưu hóa nguồn vốn.
Chính sách quản lý nợ bền vững và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế sẽ là những yếu tố then chốt trong việc ổn định nợ công của Việt Nam trong tương lai. Thông qua bài viết của TOPI, chúng tôi hy vọng bạn sẽ có cái nhìn tổng quan về tình hình nợ công hiện nay của nước ta.
Nợ chính phủ hay còn gọi là nợ công là một chỉ số quan trọng để đánh giá về sự bền vững của nền tài chính quốc gia. Nếu nợ chính phủ của một quốc gia quá cao, đây là một dấu hiệu cho thấy quốc gia đó có thể gặp khó khăn trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính, có nguy cơ dẫn tới bất ổn kinh tế.
Đồ thị dưới đây xếp hạng nợ chính phủ của các nền kinh tế phát triển, sử dụng tỷ lệ tổng nợ chính phủ trên tổng sản phẩm trong nước (GDP), với dữ liệu được lấy từ dự báo từ Báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới vào tháng 10/2023 của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
Trong 20 nền kinh tế phát triển được phân tích, 11 quốc gia có tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP ở mức hơn 100%. Đứng đầu là Nhật Bản với tỷ lệ này ở mức trên 100% trong suốt hai thập kỷ qua. IMF dự báo tỷ lệ nợ chính phủ/GDP của Nhật Bản năm 2023 là 255%.
Năm 2023, nợ chính phủ của Mỹ vượt mốc 33 nghìn tỷ USD, tương đương 123% GDP. Cách đây 20 năm, tỷ lệ này chỉ ở mức chưa tới 60%. Dù vậy, tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP của Mỹ vẫn thấp hơn so với mức bình quân 128% của Nhóm 7 nước công nghiệp phát triển (G7).
Đức là quốc gia có tỷ lệ này thấp nhất trong nhóm G7, ở mức 66%. Tất cả các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) đều đang cố gắng đưa tỷ lệ nợ công/GDP xuống mức dưới 60% để đảm bảo sự bền vững của nền tài chính.
Đến cuối quý II, Vingroup có gần 400.000 tỷ đồng nợ phải trả, hệ số nợ vay thuần là 0,24 lần và ở mức trung bình trong nhóm các doanh nghiệp bất động sản niêm yết.
Theo báo cáo tài chính hợp nhất kiểm toán bán niên, tổng nợ phải trả tính đến cuối quý II của Vingroup đạt gần 400.000 tỷ đồng, dù vậy, chiếm tỷ trọng lớn nhất là các khoản tiền khách hàng, đối tác trả trước và các khoản phải trả khác chưa đến hạn thanh toán.
Trong đó, tiền khách hàng và các đối tác trả trước để mua các sản phẩm bất động sản của tập đoàn, về bản chất là doanh thu trong tương lai, ghi nhận 134.106 tỷ đồng, chiếm gần 34% tổng nợ phải trả.
Các khoản phải trả khác nhưng chưa đến hạn thanh toán như nợ nhà cung cấp, thuế và các khoản chi phí xây dựng trích trước ghi nhận hơn 110.000 tỷ đồng. Theo Vingroup, đây là các khoản chi phí phát sinh trong hoạt động thường xuyên và sẽ được cân đối với các khoản phải thu.
Vay ngân hàng vẫn là một trong những cấu phần chính của nợ phải trả, nhưng tỷ lệ không quá áp đảo. Tổng nợ vay (bao gồm vay ngân hàng, vay các tổ chức tín dụng, trái phiếu) ghi nhận 166.588 tỷ đồng, chiếm hơn 40% nợ phải trả. Trong đó, nợ vay dài hạn chiếm tỷ trọng chính với hơn 110.000 tỷ đồng.
Tại thời điểm kết thúc quý II, tổng quy mô tiền mặt và tương đương tiền của tập đoàn đạt hơn 42.200 tỷ đồng. Tỷ trọng nợ vay thuần - tính theo quy mô nợ vay sau khi trừ đi các khoản tiền và tương đương tiền - trên tổng nguồn vốn chỉ ở mức 0,24 lần. Quy mô nợ vay thuần trên vốn chủ sở hữu ở mức dưới 1 lần. Hiểu đơn giản, mỗi 100 đồng tài sản của Vingroup đối ứng với chỉ 24 đồng từ nợ vay, còn lại là vốn chủ sở hữu và các nghĩa vụ nợ khác. Tương tự, trong tổng nguồn vốn, mỗi đồng nợ vay tương đương với một đồng vốn chủ sở hữu.
Con số này ở mức trung bình so với nhóm doanh nghiệp bất động sản niêm yết trên sàn và thấp hơn một số nhà phát triển quy mô lớn khác. Tính chung gần 40 nhà phát triển bất động sản đang niêm yết, hệ số nợ trên tài sản và vốn chủ sở hữu trung bình cuối quý II khoảng 0,27 và 0,83 lần.
Theo số liệu phân tích từ FiinGroup, một trong ít các doanh nghiệp được cấp phép xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam, tỷ lệ đòn bẩy nợ vay trên vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp bất động sản niêm yết có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây. Hệ số này giảm từ mức 0,58 lần năm 2018 xuống 0,47 vào quý I/2022.
Điều này cho thấy khả năng vay và trả nợ của các doanh nghiệp bất động sản dân cư hiện vẫn tương đối ổn định. Tuy nhiên, tình hình dịch bệnh và vấn đề pháp lý làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai các dự án, qua đó khiến việc tiếp cận nguồn vốn của nhóm doanh nghiệp này từ các kênh gặp hạn chế.
Nửa đầu năm nay, tổng doanh thu thuần hợp nhất của Vingroup đạt hơn 31.600 tỷ đồng, giảm gần nửa so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do các dự án bất động sản đang trong quá trình xây dựng và sẽ được bàn giao trong nửa sau của năm nay.
Trong khi đó, các lĩnh vực còn lại đều ghi nhận sự hồi phục và tăng trưởng tốt như kinh doanh khách sạn và vui chơi giải trí tăng 80%; y tế và giáo dục tăng lần lượt 43,6% và 14%. Theo Vingroup, kết quả này chủ yếu do các cơ sở đã hoạt động bình thường và khởi sắc so với cùng kỳ năm 2021.
Lợi nhuận trước thuế trong sáu tháng đầu năm nay đạt gần 3.500 tỷ đồng.
Đến ngày 30/6, tổng tài sản Vingroup đạt gần 530.000 tỷ đồng, tăng 23% so với cuối năm trước. Trong đó, hàng tồn kho tăng 61% lên gần 81.000 tỷ do có nhiều bất động sản để bán đang xây dựng - dự án mới mở bán Vinhomes Ocean Park 2 – The Empire. Theo Vingroup, các sản phẩm dự kiến được giao từ quý III năm nay, sẽ giúp tập đoàn hoàn thành mục tiêu đề ra ở mảng bất động sản.
Mỹ là nước có lượng Việt Kiều và kiều hối lớn nhất về Việt Nam nhưng tính trung bình mỗi người Việt tại Đức lại gửi nhiều tiền về Việt Nam hàng năm nhất. Nhật Bản tuy có lượng người Việt đang sinh sống lớn thứ 2 nhưng lượng kiều hối trung bình lại xếp gần cuối bảng, chỉ hơn Trung Quốc.
Mới đây trang báo điện tử VnExpress đã có bài thống kê về lượng kiều hối hàng năm về Việt Nam với nhiều thông tin bất ngờ. Qua đó, lượng kiều hối tăng trưởng đều đặn hàng năm và hiện tại mỗi năm đồng bào ở nước ngoài gửi về Việt Nam hơn 18 tỷ đô la, theo các số liệu tính toán được. Số lượng thực tế có thể cao hơn rất nhiều. Con số này chiếm tới 5% GDP của Việt Nam.
Qua đó, Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia nhận kiều hối lớn nhất thế giới cùng với các nước là Ấn Độ, Trung Quốc, Mexico, Philippines, SAudi Arabia, Pakistan, Pháp, Bangladesh, Đức.
Lượng kiều hối của Việt Nam đổ về từ Việt Kiều ở khắp nơi trên thế giới, thế nhưng có những đất nước là thị trường xuất khẩu lao động chính của Việt Nam hoá ra lại không mang về nhiều kiều hối như chúng ta nghĩ.
Xếp về số lượng người Việt thì Mỹ chiếm nhiều nhất với hơn 1,4 triệu người. Điều này là dễ hiểu bởi lượng lớn người Việt di cư sau năm 1975 đã định cư tại Mỹ. Mỹ cũng là quốc gia mà lượng kiều hối về Việt Nam lớn nhất chiếm gần 50% tổng lượng kiều hối. Xếp sau về số lượng người Việt đang sinh sống là Nhật bản, Trung Quốc, Úc, Canada, Hàn Quốc.
Nếu chia trung bình lượng kiều hối trên mỗi người Việt theo từng nước thì Đức là quốc gia đứng đầu với trung bình mỗi Việt Kiều Đức gửi về Việt Nam khoảng gần 6000$ (khoảng 150 triệu đồng/năm).
Trong đó đáng chú ý là Nhật Bản, Trung Quốc là 2 thị trường xuất khẩu lao động chính của Việt Nam trong nhiều năm qua nhưng lượng kiều hối tương đối khiêm tốn và giá trị trung bình mỗi người gửi về hàng năm chưa tới 600$ tức là chưa bằng 1/10 một người từ Đức gửi về. Điều này có thể lý giải như sau.
Ở 3 nước có giá trị trung bình kiều hối lớn nhất là Đức, Canada, Mỹ thì đa phần người Việt đang sinh sống là những kiều bào định cư lâu dài. Họ đã an cư, lạc nghiệp nên có mức thu nhập cao tương ứng với mức thu nhập đầu người của nước sở tại. Hoặc như nước Đức gần đây có du học nghề nhưng đây là du học có đào tạo nghề nên khi ra trường được ở lại định cư với mức lương tương đối cao.
Trái lại người Việt ở Nhật tương đối phong phú nhưng đa phần là lao động phổ thông ngắn hạn 3-5 năm hoặc du học sinh. Với lao động phổ thông Việt Nam thì mức thu nhập không thể như người bản địa còn với du học sinh thì đa phần thu nhập từ đi làm thêm vốn dĩ cũng phải chi trả phần lớn cho chi phí sinh hoạt đắt đỏ.
Bên cạnh đó, mỗi người Việt từ Hàn Quốc lại gửi về gần 3400$ hằng năm, mức tương đối khá và xếp thứ 7. Ngoài ra Malaysia cũng là thị trường xuất khẩu lao động truyền thống của Việt Nam nhưng mức kiều hối trung bình khá thấp, mỗi năm chỉ khoảng gần 1300$. Thậm chí mức này chỉ bằng 1 nửa GDP/đầu người của Việt Nam. Vì thế nên thị trường Malaysia đang ngày càng kém hấp dẫn.
Một điểm bất ngờ là người Việt ở Campuchia gửi về tới hơn 3400$ hàng năm xếp thứ 6 , cao hơn cả từ Hàn Quốc. Điều này có thể lý giải bởi người Việt ở Campuchia đa phần là định cư lâu dài và họ có cuộc sống và mức thu nhập cao hơn hẳn người bản địa. Nhiều người sang đầu tư và phát triển kinh doanh nên có mức thu nhập cao.
Bản quyền bài viết thuộc Du học Đức BLA. Tham khảo số liệu từ báo điện tử VnExpress: https://vnexpress.net/kieu-hoi-ve-viet-nam-nhieu-co-nao-4421073.html
Châu Âu là một lục địa đa dạng về văn hóa, lịch sử và địa lý, nơi có rất nhiều quốc gia độc lập. Với sự đa dạng về ngôn ngữ, văn hóa và chính trị, Châu Âu là một điểm đến hấp dẫn cho du khách từ khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên, câu hỏi “Châu Âu có bao nhiêu nước?” có thể khiến nhiều người băn khoăn. Để có câu trả lời chính xác cho câu hỏi này, hãy cùng TPD Việt Nam tìm hiểu về các nước châu Âu trong bài viết này nhé.
Châu Âu là một lục địa nằm ở phía tây của lục địa Á, được bao quanh bởi Đại Tây Dương, Biển Bắc và Biển Trung Địa. Đây là một trong những lục địa có độ phát triển văn hóa, kinh tế và chính trị cao nhất trên thế giới. Châu Âu bao gồm một loạt các quốc gia độc lập với đa dạng ngôn ngữ, văn hóa và lịch sử.
Với bản đồ Châu Âu, bạn có thể thấy rằng nó được chia thành nhiều quốc gia nhỏ và lớn, từ các nước có diện tích rộng lớn như Nga và Pháp đến những quốc gia nhỏ bé như Liechtenstein và San Marino. Châu Âu cũng là nơi có nhiều thành phố lớn, đáng chú ý như London, Paris, Berlin và Moscow.
Theo Liên Hiệp Quốc, hiện nay Châu Âu bao gồm 44 quốc gia độc lập. Nga, Kazakhstan, Azerbaijan, Gruzia và Thổ Nhĩ Kỳ được xem là các quốc gia xuyên lục địa, một phần nằm ở cả Châu Âu và Châu Á. Armenia và Síp, mặc dù về mặt chính trị được coi là các quốc gia Châu Âu, nhưng địa lý của họ nằm trong lãnh thổ Tây Á.
Nga là quốc gia lớn nhất Châu Âu, chiếm 37% tổng diện tích lục địa, trong khi tòa thánh Vatican (Holy See) là quốc gia nhỏ nhất. Châu Âu là lục địa duy nhất không bị bao quanh bởi nước từ mọi hướng, vì có một biên giới đường bộ với Châu Á.
Về mặt địa lý, các quốc gia Châu Âu nằm ở phía Tây Bắc của vùng đất rộng lớn được gọi là lục địa Á-Âu, và được bao quanh bởi Bắc Băng Dương ở phía bắc, Đại Tây Dương ở phía Tây, và biển Địa Trung Hải ở phía nam, giáp Biển Đen ở phía đông nam. Đường biên giới chính xác giữa hai châu lục thường được mô tả bởi dãy núi Ural ở Nga, biển Caspi và dãy núi Caucasus.